Cơm nắm muối vừng – Bao kỷ niệm cuộc đời tôi

Bây giờ thì còn nói làm gì. Hễ muốn ăn đến sơn hào hải vị đặc sắc nhất trên thế gian, ngoài thị trường sẵn đầy, trên mạng có ngay lập tức, nói chi đến món quà bình dân cơm nắm muối vừng.

Sáng sáng, trên các đường phố Hà Nội, thi thoảng người ta lại bắt gặp các cô hàng gánh rong bán đủ các loại bánh quà dân tộc, nhưng khách gọi mua nhiều nhất là bánh dầy giò và cơm nắm muối vừng. Nắm cơm nho nhỏ chừng lòng bàn tay, trắng trẻo, mịn màng, thêm gói muối vừng xinh xinh kèm theo, đôi khi là thứ muối vừng trộn thêm ruốc thịt lợn, giá cũng chỉ mươi lăm ngàn bạc. Thuận miệng gọi cô hàng cắt thêm khoanh giò nhỏ, thế là đã thành bữa cơm trưa cho những người đàn bà, con gái ưa thanh cảnh.

Hầu hết những nắm cơm hàng rong đường phố ấy đều có xuất xứ từ làng Lạc Đạo, huyện Văn Giang, Hưng Yên. Đó là một làng quê có nghề nắm cơm bán buôn nổi tiếng ở Hà Nội và các vùng lân cận.

Thế nhưng với riêng tôi, trên thế gian này tôi chưa từng thấy ai nắm cơm khéo và ngon như bà ngoại của tôi. Bà ngoại tôi vốn con gái họ Đặng, xuất thân tại làng đúc đồng Dí Thượng, xã Nguyệt Đức, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh, làng cũng khá gần với làng Lạc Đạo. Thời xưa đi lại khó khăn, nhà tôi về quê cứ ra ga Long Biên đi tàu hỏa, dừng lại ở ga Lạc Đạo, rồi đi bộ ròng rã dăm bẩy cây số chi đó mới về đến làng. Những năm đầu thế kỷ XX, bà tôi đã theo gia tộc họ ngoại lên sinh sống và làm nghề đúc đồng tại bán đảo Ngũ Xã bên hồ Trúc Bạch. Bán đảo Ngũ Xã theo truyền thuyết thì đã được triều đình nhà Lý cho dân 5 làng nghề đúc đồng của Bắc Ninh, Hưng Yên sang lập nghiệp và hành nghề. Như thế để tránh nguy cơ hỏa hoạn cho kinh thành Thăng Long.

Thời xưa có tập tục lưu truyền ở các làng nghề vùng quê với các phố nghề Hà Nội. Đó là cứ trẻ ra phố hành nghề, già về quê vui cảnh ruộng vườn. Nhưng sau đến thế kỷ 20, ít nhà còn theo tập tục đó. Rồi thì nhà bà ngoại chuyển về sinh sống tại phố Hàng Đồng, để ông ngoại tôi, một ông thư ký tòa án Hà Nội đi làm cho gần công sở và bà thì tiện việc buôn bán đồ đồng trên phố cùng dân làng nghề. Buôn có bạn bán có phường là thế.

Bà ngoại tôi dáng gầy gầy, đôi mắt đen sáng, bước chân nhanh nhẹn, tính tình vui vẻ. Là vợ ông ký tòa, công việc bán buôn cũng hanh thông nên bà tôi cũng thạo các thú chơi của các bà ký bà phán, vợ các công chức khá giả ở Hà Nội cũ. Nào thưởng trà, uống rượu, hút thuốc, chơi tổ tôm. Khi tôi lớn lên vào tuổi thiếu nữ thì bà ngoại đã sang tuổi ngoại bẩy mươi. Bà ngoại ở với gia đình tôi từ khi mẹ tôi đi lấy chồng, bởi vì bà sinh được có mỗi mình mẹ tôi, mà lúc ấy ông tôi đã mất sớm. Sau kỳ cải tạo tư sản tư doanh, gia đình tôi lâm vào hoàn cảnh khó khăn, bà ngoại cũng bỏ dần những thú vui uống rượu, hút thuốc… Bà ngoại tôi nấu ăn có lẽ không khéo bằng mẹ tôi. Nhưng bà có mấy món ngon mà cả nhà đều rất thích. Đó là tôm rang, cá kho. Và nhất hạng là cơm nắm.

Mỗi sáng, bà thường dậy rất sớm, tự pha một ấm trà mạn, ngồi một mình trên chiếc trường kỷ cũ, thong thả nhấm nháp. Rồi bà nhồi một bếp lò mùn cưa, rang cơm hay nấu mì, gọi con cháu dậy ăn sáng rồi đi học, đi làm. Gặp khi nhà có gạo mới do người ở quê gửi ra làm quà, hay gạo quê do mẹ tôi đổi gạo mậu dịch ba cân được hai cân, thì bà ngoại thường dậy sớm hơn ngày thường, thổi nồi cơm mới, đặng trình diễn món cơm nắm tuyệt đỉnh công phu. Chứ nếu là gạo mậu dịch vừa mọt mốc vừa khô cứng thì “nắm cơm làm gì cho uổng công lênh”. Bà ngoại thường lẩm nhẩm như thế mỗi lúc đám cháu lau nhau đòi ăn cơm nắm.

Muốn nắm cơm thật ngon, bà ngoại tãi gạo nhặt bằng hết thóc sạn, vo đãi sạch sẽ rồi để ráo nước. Bà thổi cơm trong chiếc nồi nhôm đúc nặng chình chịch, sản phẩm đặc hữu của làng nghề đúc đồng Ngũ Xã thời bao cấp, khi mà nhà nước cấm buôn bán, sản xuất đồ đồng. Bà dạy rằng, khi thổi cơm để nắm thì cho nước nhiều hơn khi thổi cơm ăn thường một chút. Cơm thường thì thổi dẻo xuê xuê, nghĩa là hạt gạo tuy chín mềm nhưng còn tơi từng hạt. Cơm để nắm phải thổi dẻo quèo quẹo, nghĩa là hạt cơm xới ra đã chín nục và từng hạt vẫn dấp dính với nhau. Nhưng dứt khoát hạt cơm không được nát nhão. Khó thế chứ!

Trong khi đóng bớt cửa lò, hạ nhỏ lửa bếp, đợi cơm chín, chỉ còn đám than mùn cưa ngún đỏ dưới đáy nồi, bà ngoại đem giặt kỹ, vắt kiệt vuông khăn vải bông trắng, loại vải thường được dệt trên các khung cửi bằng tay cổ xưa mà những người đàn bà thường may yếm áo, khổ ngang 4 tấc (40 phân, 40 cm), nay hầu như đã thất truyền. Đoạn, bà trải khăn lên chiếc mâm nhôm sáng trắng và lấy đôi đũa cả xới thử chút cơm mới. Chừng thấy hạt cơm bóp trên tay đã chín dẻo, dinh dính ngón tay, bà liền tay xới thật nhanh chừng độ hai bát ô tô cơm, đổ thẳng lên trên mặt khăn, rồi cứ thế hai tay nắm bốn góc khăn túm lại và nhồi ép, xoay vòng, nắm cơm thật nhanh, thật nhanh. Chiếc mâm nhôm kêu lục cục, lộc cộc dưới sức nặng đôi tay thành thục, nhanh nhẹn của bà. Cứ như thế liên tục, độ mươi phút sau, bà nới tay xuê xoa cho nắm cơm tròn lại như hình chiếc bánh dày đại trong đám hội làng. Bà nắm chừng độ ba nắm cơm như thế đặt trên chiếc rổ tre cho đi hơi, đợi con cháu dạy đi làm thì cắt cho mỗi đứa một đôi miếng, đem chấm muối vừng ăn sáng.

Chao ôi, cái mùi cơm gạo mới nó mới thơm ngọt làm sao. Lát cơm trắng muôn muốt, liền lạc như miếng bánh. Chấm thêm chút muối vừng mằn mặn thơm thơm, thôi thì ăn thun thút như thể chả kịp nhai nữa. Bà ngoại nhắc nhở:

– Ăn từ từ thôi, khéo nghẹn đấy!

– Thế thôi, để cháu đem đến trường ăn cho kịp giờ học ạ.

Thực ra là tôi lấy cớ như thế để được bà gói thêm cho một hai miếng cơm trong tờ giấy báo cũ mà đem đến lớp khoe cùng đám bạn nhỏ. Đôi khi chúng bỏ hết cả xôi lúa, bánh mì pate để chấm chóe tranh nhau mấy lát cơm nắm muối vừng của tôi. Đến lúc trống trường vang lên thì cả đám chùi vội đôi tay vào vạt áo, miệng còn vương mấy bụi muối vừng lem nhem, cứ thế chạy vội vào xếp hàng lên lớp.

Bà ngoại tôi kể chuyện là hồi còn nhỏ ở quê, nhà có ai đi đâu xa là sẽ đem theo nắm cơm, gói muối vừng ăn độ đường, chứ ngày xưa làm gì có hàng quán đông đúc như Hà Nội. Cơm nắm gói trong lòng chiếc mo cau tước mỏng thơm và dẻo đến tận vài ba ngày không hỏng. Khi ăn chỉ cần gọt bỏ sơ sơ lớp cơm khô bên ngoài rồi bẻ ra từng miếng mà chấm muối vừng. Chiêu thêm ngụm nước mưa xin được ở một căn nhà bất kỳ dọc đường, là tha hồ mát ruột, lành bụng.

Đôi khi thấy bà ngoại nắm cơm khéo, chị em tôi rất muốn học theo, nhưng khó lắm. Bởi vì cơm mới xới từ nồi ra nóng giẫy, những đôi tay bé nhỏ non nớt của chị em tôi đụng vào nắm cơm là bỏng rát, đỏ rực. Chưa nói đến phải xoa ép, nhồi nắn liên tục. Bà ngoại bày cách cho học nắm từng nắm cơm nho nhỏ, chỉ chừng một bát cơm xới, thành những nắm con con như chiếc bánh dày nhỏ. Chị em tôi cũng chỉ nắm nổi một nắm cho chính mình thì đã vội nhảy chân sáo đi khoe khắp nơi.

Muối vừng bà ngoại rang cũng rất kỳ công. Lạc được chọn là thứ lạc cúc vỏ đỏ sẫm, hạt bé xinh, trồng sáu tháng, mới thơm chắc béo bùi. Chứ thứ lạc hồng to thồ lồ là lạc trồng ba tháng, ăn nhạt và kém thơm, kém giòn. Bà rang lạc trước trong cát khô, lửa nhỏ, hạt lạc chín vàng từ ngoài vào trong. Sau đó, bà sàng lạc khỏi cát, đem ủ lạc trong mấy tờ giấy báo gấp lại để lạc thật giòn. Rồi bà rang muối cho kỹ, hạt muối như nhảy lên trong chảo nóng, từ trong vắt trở nên đục mờ. Bà bảo, nếu rang muối dối thì muối vừng sẽ dễ bị ỉu, kém độ giòn, khó để được lâu. Sau cùng bà rang vừng, cũng nhỏ lửa thôi. Chừng nghe vừng rang nổ tanh tách, bốc hơi thơm thơm là được. Vừng và muối được giã trước. Rồi bà quay lại vò nắm báo gói lạc cho lạc bong hết vỏ. Đoạn bà đổ lạc ra chiếc dần tre, sảy bay hết vỏ, mới đem giã. Bà dạy rằng giã lạc phải giã nhẹ tay, vừa giã vừa chú ý nghiêng chày, lắc cối cho lạc giập vỡ đều mà không bết dính. Nếu lạc bết dính sẽ mau chảy dầu làm muối vừng chóng hôi. Chị em tôi ngồi cạnh bà chỉ muốn bà giã lạc cho chóng, đừng giã nhỏ quá, để về sau còn lắc lọ muối vừng lấy mấy hạt lạc to to ăn vụng trước. Cái mùi thơm của hạt lạc ngấm mùi vừng nó mới thật là thơm, chứ lạc rang mà chả có vừng bao phủ quanh, ăn nó kém thi vị hẳn. Còn giục bà trộn muối vừng thật nhanh để lấy cơm nguội vét cối tranh nhau ăn, chị em tha hồ chí cha chí chóe.

Bây giờ mỗi khi nhớ tới bà ngoại và món cơm nắm thân thương, tôi thường ứa nước mắt ân hận. Một câu chuyện rất buồn. Ngày ấy, mùa xuân năm Canh Thân 1980, vợ chồng tôi mới cưới được chừng vài ba tháng. Tôi mới 22 tuổi, đang ốm nghén đứa con gái đầu lòng vào đúng vào thời gian chuẩn bị thi tốt nghiệp đại học. Chồng tôi mới giải ngũ về làm nhân viên văn phòng ở một cơ quan nhà nước. Ngoài giờ làm việc, anh nhận chở hàng thuê kiếm thêm tiền sinh sống. Chẳng may có bận chở phải hàng món hàng phế liệu vỏ đạn cũ, nhưng ngày ấy được liệt vào hàng quốc cấm, thế là vướng vòng lao lý mất 8 tháng trời. Dù sau này được toà xử miễn tố tha về, nhưng vẫn coi là một tiền sự, một trong những nỗi đau của cuộc đời.

Dạo ấy, cả nhà nội ngoại sững sờ. Tôi ngày đêm khóc lóc, ai oán, thương thân, trách phận. Mỗi kỳ tiếp tế cho chồng tôi, chủ yếu do nhà ngoại đảm nhận vì nhà nội ở quê Thái Bình rất xa, và tôi còn phải theo khóa thực tập tốt nghiệp tại Bắc Giang. Nước mắt nuốt vào trong dạ, không dám cho ai biết. Vì ngày ấy hễ nhà có người thân mắc vòng tù tội là ghê gớm lắm. Sẽ rất nhiều lời đồn đại, nhiều con mắt nghi ngại cùng những sự xa lánh vây quanh. Còn làm sao mà tiếp tục việc học hành thi cử?

Mỗi tháng một kỳ tiếp tế, mẹ tôi và các chị em trong nhà lo giã ruốc, chưng mắm, rang vừng lạc, mua mì sợi khô, thái bánh mì đem thuê nướng bít cốt. Và đúng sáng hôm ấy, bà ngoại dậy từ 2 giờ sáng, thổi cơm, nắm cơm, gói cơm vào giấy báo và giấy nilong. Tất cả cho vào một bao tải lớn buộc túm. Bốn giờ sáng, mẹ tôi thuê xích lô xách đồ lên xe cho ra Hỏa Lò xếp hàng tiếp tế cho anh. Tất cả là 8 kỳ như thế. Tôi chỉ theo bà ngoại tham gia được đúng một kỳ, khi đã hoàn thành khóa luận tốt nghiệp đại học, bụng bầu to vượt mặt, chân xuống máu sung vù. Nhìn bà ngoại kéo lê bao tải đồ, run run điểm chỉ vào tờ khai thân nhân (bà đâu có biết chữ), tôi xót xa quặn thắt ruột gan. Sau kỳ tiếp tế đó là tôi sinh con nhỏ, nằm nhà miết và lại khóc ròng rã.

Sau này, khi chồng tôi trở về, con gái đã được gần hai tháng tuổi. Tôi kể chuyện là bà ngoại toàn dạy sớm xếp hàng đi tiếp tế. Anh nói, thảo nào thấy tờ khai thân nhân toàn có dấu điểm chỉ, cứ suy đoán mãi không biết là ai gửi quà cho. Bởi vì đang thời kỳ tạm giam, không có chuyện thư từ, gặp mặt chi hết. Nhưng ăn khi ăn miếng cơm thơm ngọt, anh vẫn biết là chỉ có thể là bà ngoại nắm cho. Ngày ấy, cơm nhà bên ngoài còn là cơm độn ngô độn mỳ, nói chi đến cơm Hỏa Lò đầy mọt mốc. Người đời thường nhiếc nhau như thế, quả không sai.

Một câu chuyện vui. Năm con gái út của tôi mới vào cấp học cấp Trung học cơ sở, khoảng năm 2000 thì phải, nhà trường tổ chức cho học sinh tham gia một chuyến dã ngoại cắm trại ở ngoại thành. Các gia đình được phổ biến là tự chuẩn bị đồ ăn trưa cho đám trẻ. Tôi hỏi:

– Thế con thích đem món gì để mẹ sửa soạn?

– Cơm nắm, muối vừng ruốc, mẹ ạ!

Cuối buổi trở về nhà sau bữa dã ngoại, chưa kịp cởi ba lô, vừa chạm ngưỡng cửa, con gái đã hét vang:

– Mẹ, hôm nay con phải ăn bánh mỳ.

– Sao thế, mẹ nắm cơm cơ mà, hai nắm to tướng mà?

– Nhưng mà đám bạn con nó tranh nhau ăn hết, còn bảo sao ít thế? Có đứa mẹ nó cũng mua cho cơm nắm, nhưng bỏ không ăn, chỉ ăn cơm nắm của con.

– Ô thế à? Thế con bảo sao?

– Để kỳ sau đi, tớ sẽ nói mẹ tớ nắm cơm thật nhiều nữa.

Mắt con bé ánh lên một niềm tự hào đầu đời rất hồn nhiên thơ ngây về mẹ, khiến tôi nhớ mãi không quên. Chao ôi, có gì đâu, chỉ là nắm cơm nắm chấm muối vừng đơn sơ, bình dị thế.

Cuối năm 2000, tôi theo nhóm ba người bạn đồng nghiệp trong cơ quan Htv Thu Hồng, Phương Mai ( Cơm Nguội), Nga Nguyen Thi Hong đi một chuyến du lịch tự túc sang 4 nước châu Âu trong hơn hai chục ngày. Để tiết kiệm, chúng tôi đem theo đủ thứ: Mắm chưng, muối vừng, ruốc…. Thủ đô Ro ma nước Ý là điểm cuối cùng của chuyến đi. Đang kỳ Noel, thời tiết khá lạnh. Sau khi từ nóc tháp chuông tại điểm du lịch lừng danh nhà thờ Thánh Piter tráng lệ bước xuống theo hàng trăm bậc cầu thang xoắn ốc, cả đám hoa mắt đói run người. Tìm một chỗ khuất đằng sau cây một cột đá khổng lồ trên quảng trường Vatican, bốn cô phóng viên chia nhau mỗi người một nắm cơm còn âm ấm. Mùi cơm gạo mới cùng mùi muối vừng bốc thơm thơm ngào ngạt. Trời ơi, đó có thể gọi là bữa cơm nắm ấn tượng nhất trần đời của tôi. Cái gạo tám Thái Lan hiệu Hoa nhài Jasmine mua ở siêu thị gần tòa đại sứ Việt Nam hôm trước nấu trong chiếc nồi cơm điện của phu nhân đại sứ, chị Hạnh cho mượn thật quá tuyệt. Cơm chín dẻo, hạt trong dài, mùi thơm ngào ngạt. Hơn đứt giống gạo tám đời mới thoái hóa bên ta. Rõ là:

Ở nhà nhất mẹ nhì con

Ra đường ối kẻ còn giòn hơn ta.

Mùi cơm gạo hòa cùng mùi muối vừng thơm phức theo cơn gió lạnh tạt tới chỗ viên cảnh sát Ý cao lớn đang túc trực cách đó chừng khoảng chục thước. Anh chàng ngoái đầu quay lại đi về phía cột đá chúng tôi ngồi rồi cười cười ra ý hỏi han. Cả bốn đứa thi nhau mời mọc cơm nắm muối vừng, chả khác gì người từ quê ra tỉnh gặp ai cũng chào. Thời ấy, khách du lịch tự do, kể cả khách Âu Mỹ ăn uống kiểu túm năm tụm ba như thế cũng khá nhiều, chứ không chỉ riêng nhóm chúng tôi. Mùi pate. xúc xích, gà rán… phương tây chắc anh chàng đã quá quen. Chứ mùi cơm nắm muối vừng đặc chất Việt Nam thì quả là quá lạ với viên cảnh sát. Anh chàng gật gật đầu ra ý đã hiểu rõ gốc tích mùi vị lạ lùng, rồi vung tay xoay tít chiếc dùi cui, vui vẻ lộp cộp chân giày quay gót, cho nhóm du khách được ăn uống tự nhiên.

Sau này chúng tôi còn có nhiều dịp trở đi trở lại các nước châu Âu, vẫn tự túc cơm Việt Nam là chính. Nhưng có khi cũng hứng chí, mạnh dạn ngồi cafee vỉa hè hay vào hiệu ăn gọi đĩa mỳ spaghetti hay pizza hải sản, ra chiều oai oách lắm. Nhưng có lẽ vẫn chả có gì sánh nổi cái cảm giác ngon lành của bữa cơm nắm muối vừng bên quảng trường Vatican mùa đông năm chuyển giao thế kỷ XX- XXI ấy.

Có một kỳ liên hoan kỷ niệm ngày thành lập Đài PT- TH Hà Nội, tôi với vai trò phụ trách chuyên mục Hà thành đặc sản được Công đoàn Đài giao cho tổ chức một bữa tiệc buffet dân gian gồm toàn các món ăn dân tộc. Đa phần các món ăn bữa ấy tôi đều đặt ở các nhà hàng truyền thống nổi tiếng trong thành phố và các làng nghề ẩm thực nổi danh lâu đời. Ví như cua đồng rang lá lốt nhà hàng Ngoại Ô ( Thu Ngân), xôi trắng nhà hàng Ánh Tuyết, bánh cuốn Thanh Trì, bún ốc Khương Thượng, bánh dầy Quán Gánh… Trong thực đơn, đương nhiên là có món cơm nắm muối vừng. Các chị em nhà tôi sức đâu nắm được cơm phục vụ cho bữa tiệc gần 500 người. Nhưng tôi đã chọn đặt cơm nắm ở chùa Phụng Thánh, ngôi chùa cổ do sư cụ Thích Đàm Ánh trụ trì. Sư cụ là người nổi danh nấu cỗ chay ngon nhất Hà Nội đã lâu năm.

Ai đã từng thưởng thức cháo nấm, xôi chè, cơm nắm ở các bữa cỗ chay chùa Phụng Thánh thì khó có thể quên nổi hương vị những món ăn bình dân mà được nấu với kỹ thuật thượng đẳng của nhà chùa. Bình thường, sư cụ chẳng nhận lời đâu. Nhưng do là tôi cùng 2 phóng viên quay phim Trung Hưng, Khuất Tuấn với mấy anh em kỹ thuật, lái xe cũng đã thức khuya dậy sớm, kỳ công ghi hình phỏng vấn, làm nên cuốn phim tư liệu Cỗ chay chùa Phụng Thánh rất được khán giả Đài Hà Nội tán dương, nên sư cụ cũng có ý nể nang, yêu quý.

Thật thương các sư cô trong chùa lại phải một phen thức khuya dậy sớm phục vụ quý Đài. Lại nói, bữa liên hoan đã thành công rực rỡ, để lại một ấn tượng khó phai trong lòng các vị thực khách nhà Đài vốn rất sành điệu chuyện ăn uống. Riêng món cơm nắm chùa Phụng Thánh, có người vừa nếm đã xin phần đem về nhà phần cho cha mẹ già, vì chả bao giờ gặp được miếng cơm nắm dẻo thơm, ngon lành đến vậy.

Mỗi tội là sau đó, tôi gặp rắc rối to vì việc thanh toán với phóng tài vụ Đài. Vì các làng nghề và các hàng ăn bình dân, không nói đến nhà chùa, ngày ấy thì lấy đâu ra hóa đơn đỏ nộp cho nhà Đài, chỉ toàn là những tờ giấy biên nhận viết tay loằng ngoằng. Khi hỏi đến nhà chùa, sư cụ Thích Đàm Ánh nói luôn:

– Thôi, để nhà chùa biếu quý Đài, không tiền nong gì cả đâu!

– A di đà Phật. Phiền nhà chùa quá. Con cảm ơn cụ vậy. Tuần tới con sẽ đề nghị Đài phát lại phim về cỗ chay nhà chùa ạ.

Sau này, trong các kỳ thiện nguyện cùng Câu lạc bộ nhà báo nữ Việt Nam, tôi thường thổi xôi, mua bánh mì đem đi cho cả đoàn ăn sáng trên xe, vừa tiết kiệm thời gian, vừa tiết kiệm tiền bạc. Nhưng có đôi ba lần, dì Vân em gái tôi ( Tuyet Van Vu) tham gia thiện nguyện cùng, nên đã xung phong nắm thêm mấy nắm cơm nắm và rang muối vừng ruốc đem theo. Dì Vân còn cẩn thận đem theo cả sợi chỉ to để xắt miếng cơm thành từng lát liền lạc, mướt mượt. Chứ mà cắt cơm nắm bằng dao thì nó dính dấp nham nhở lắm. Lên xe, nghe nói có cơm nắm nhà làm, cả xe đòi nếm thử, khen tấm tắc. Có người chả đợi dì Vân xắt cơm, cứ tự tay bẻ cơm chia nhau. Ôi dào, cầu kỳ làm gì chứ. Cứ ngon là được.

Thật! Chứ thứ cơn nắm Lạc Đạo gánh rong ấy, tôi chỉ ăn thử một đôi lần, hàng này rồi hàng khác, kẻo sợ nói oan, nhưng thấy vẫn hệt như thế. Thôi cạch hẳn. Vì sao? Trông nắm cơm rất đẹp, trắng trong, mịn mướt, hạt gạo tưởng như tan nhuyễn vào nhau nhưng vẫn còn nguyên hình hài thon thả, như những hạt ngọc xếp khuôn bên nhau khéo léo. Lắm lúc tôi cứ ngờ ngợ, hay là người Lạc Đạo nắm cơm bằng máy nhỉ? Vậy mà đến khi ăn vào miệng, miếng cơm mềm mại nhưng không rền dẻo. Đặc biệt là nó rất nhạt nhẽo, không còn chút mùi thơm nào của gạo mới cơm mới. Muối vừng giã vừa khéo nhưng thường hôi cũ, ruốc bông rang sao dài sợi nhưng thường xơ cứng, giò lụa giòn thơm nhưng ngọt lợ vị mì chính.

Tôi phải thừa nhận rằng kỹ thuật nắm cơm, giã vừng, gói giò của người Lạc Đạo rất đáng nể, hình thức nắm cơm rất khá nhưng nội hàm chất lượng sản phẩm thì không đạt. Nhất là cái thứ gạo xay sát quá kỹ từ thóc cấy ngắn ngày, hạt to, năng suất cao. Khi vo gạo thổi cơm nắm, họ vo quá kỹ nữa, cốt lấy mầu trắng đẹp mắt mà để mất đi rất nhiều vi chất dinh dưỡng trôi theo những thùng nước gạo. Thật phí của!

Thị trường bây giờ thật nhiều giống gạo ngon. Nhất hạng có séng cù Mường Khương, gạo Nàng thơm chợ Đào. Siêu thị đầy gạo Thái, gạo Nhật, gạo Hàn, gạo Campuchia… Các giống gạo đó thổi cơm để nắm đều khá thơm ngon. Hai cái Tết Kỷ Hợi và Canh Tý vừa rồi, tôi lại được cô MC đầu tiên của chương trình Hà thành đặc sản duyên may cùng tên là Hà Thành ( Nguyen Ha Thanh) gửi biếu hai túi gạo ngon. Năm trước là Sóc Trăng ST 24, năm sau là Sóc Trăng ST 25. Riêng ST 25 còn vừa được phong danh hiệu gạo ngon nhất thế giới. Gạo ấy giờ đem thổi cơm nắm thì ngon đừng hỏi luôn.

Ấy thế mà đôi lúc tôi vẫn nhớ hương vị cái giống gạo tám xoan ngày cũ của vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng cách đây đã hơn nửa thế kỷ. Ấy vẫn là cái thứ gạo ngon mà tôi đánh giá là nhất thế giới trong ký ức tuổi thơ. Ngày nay, các loại gạo tám đời mới ngắn ngày thoái hóa chả thể nào sánh nổi. Đem mà nắm cơm thì càng kém cạnh. Nói chi đến nắm cơm của bà ngoại ngày xưa.

Thi thoảng hình ảnh bà ngoại vẫn cứ như hiển hiện trước mắt tôi như hồi bà còn tại thế. Tết nhất, bà thường mặc áo bông trần màu tiết dê quàng khăn nhung đen. Đi đám cưới hỏi, bà thường mặc áo dài kép lụa tơ tằm trong màu vàng chanh, ngoài màu nâu án tía, quần lĩnh đen cạp điều. Mùa hạ, bà ngoại thường mặc áo cánh nâu, quần láng đen, đầu chít khăn mỏ quạ. Mùa đông, bà thường mặc áo bông dài vải láng trần quân cờ, đầu chít thêm một chiếc khăn len mầu nâu vàng bên ngoài chiếc khăn mỏ quạ đen. Bà ngoại thường ngồi trên chiếc ghế đẩu thâm thấp, cạnh lò bếp mùn cưa, trên đặt cái nồi thổi cơm nhôm đúc dày cục, tay ôm khư khư chiếc bình tích đồng thau đựng nước sôi già bọc mấy lần khăn bông giữ ấm. Bà ngoại xa nhớ của con ơi !

Bài & ảnh Vũ Thị Tuyết Nhung.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *